Âm mưu đảo chính năm 1938 Phong_trào_chống_đối_Hitler

Nhóm trí thức tiếp xúc với Đại tá Hans Oster, phụ tá chính cho Đô đốc Wilhelm Franz Canaris Giám đốc Cục Quân báo, và thấy vị sĩ quan này không những có tinh thần chống Hitler mãnh liệt mà còn sẵn sàng làm cầu nối giữa hai giới quân đội và dân sự. Tuy nhiên, mãi đến mùa đông 1937 – sau khi Hitler quyết định gây chiến tranh, thanh trừng các tướng lĩnh và đích thân nắm quyền tổng tư lệnh, đối xử tệ hại với tướng Fritsch – thì vài tướng lĩnh mới nhận ra hiểm họa của nhà độc tài Quốc xã đối với nước Đức. Việc Đại tướng Beck từ chức vào cuối tháng 8/1938 khiến có thêm một số người thức tỉnh. Beck hiển nhiên là người có thể tụ hội cả những tướng lĩnh ương ngạnh lẫn giới dân sự bất mãn. Cả hai nhóm đều kính trọng và tin tưởng ông.

Cả hai nhóm cũng phải xét thêm một điểm nữa. Để lật đổ Hitler, cần phải dùng vũ lực, và chỉ Quân đội mới có vũ lực. Nhưng ai trong Quân đội có thể gom vũ lực lại cho họ? Họ nhận ra là cần có tướng lĩnh thật sự chỉ huy binh sĩ trong và chung quanh thủ đô, và có thể hành động ngay khi được cấp báo. Tướng tân Tham mưu trưởng Lục quân Franz Halder không có quân dưới tay; còn Tướng tân Tư lệnh Lục quân Walther von Brauchitsch không được tin cậy.

Vài tướng lĩnh chủ chốt sẵn sàng cộng tác. Ba người có vị thế quan trọng để mang lại thành công: Tướng Erwin von Witzbelen, tư lệnh quân khu Berlin và vùng phụ cận; Tướng Bá tước Erich von Brockdorff-Ahlefeld, chỉ huy doanh trại Potsdam gồm Sư đoàn 23; và Tướng Erich Hoepner, tư lệnh một sư đoàn thiết giáp ở Thüringen.

Kế hoạch của nhóm phản loạn là bắt giữ Hitler ngay khi ông ra lệnh cuối cùng tấn công Tiệp Khắc và giải ông ra trước Tòa án Nhân dân với cáo buộc ông đã đẩy nước Đức vào hiểm họa chiến tranh Châu Âu và vì thế không có năng lực lãnh đạo. Thời gian đầu sẽ là chế độ độc tài quân sự, kế tiếp là chính phủ lâm thời do một nhân vật được trọng vọng đứng đầu. Sau đấy sẽ thành lập chính phủ dân chủ bảo thủ.

Để đảm bảo thành công, có hai yếu tố cần xem xét liên hệ đến hai nhân vật chủ chốt: Tướng Halder và Tướng Beck. Yếu tố đầu là thời gian. Halder đã dàn xếp với Bộ Tổng tham mưu là ông cần được thông báo trước 48 giờ về lệnh cuối cùng của Hitler tấn công Tiệp Khắc. Việc này sẽ giúp ông có đủ thời giờ thực hiện cuộc đảo chính trước khi quân đội có thể vượt biên giới Tiệp Khắc. Vì thế, ông sẽ có thể bắt giữ Hitler và ngăn chặn bước cuối cùng dẫn đến chiến tranh.

Yếu tố thứ hai là Beck phải có khả năng thuyết phục các tướng lĩnh trước và dân Đức sau, rằng tấn công Tiệp Khắc sẽ gây ra chiến tranh châu Âu mà Đức chắc chắn sẽ bại trận. Đây là chủ đề của các bản ghi nhớ của ông suốt mùa hè và là cơ sở cho tất cả những gì ông chuẩn bị làm bây giờ: tránh cho Quốc xã sa vào cuộc xung đột ở châu Âu – bằng cách lật đổ Hitler.

Thương thay cho Beck, và cho phần lớn thế giới, chính là Hitler chứ không phải cựu Tham mưu trưởng Lục quân có cái nhìn khôn ngoan hơn về những khả năng của cuộc chiến lớn. Một người có văn hóa và có ý thức về lịch sử như Beck không thể nghĩ ra rằng Anh và Pháp lại cố tình hy sinh quyền lợi của họ bằng cách không can thiệp nếu Đức tấn công Tiệp Khắc. Ông có ý thức về lịch sử nhưng không biết gì về những chính sách đương đại. Hitler thì biết rõ. Trong một thời gian Hitler đã biết rằng Anh thà hy sinh Tiệp Khắc còn hơn là tham gia chiến tranh và như thế, Pháp cũng không muốn giúp Tiệp Khắc.

Khi nói chuyện với Jodl ngày 8 tháng 9 năm 1937, Tướng Karl-Heinrich von Stülpnagel, thuộc Tổng cục Hậu cần của Bộ Tổng tham mưu và cũng tham gia vào nhóm âm mưu đảo chính của Halder, yêu cầu báo cho Bộ Tổng tham mưu trước 5 ngày về lệnh của Hitler tấn công qua Tiệp Khắc. Đại tướng Cấp cao Alfred Jodl, Tham mưu trưởng Hành quân của Bộ Tổng tham mưu Quân lực, trả lời rằng vì lý do thời tiết thất thường, chỉ có thể đảm bảo báo trước 2 ngày. Như thế là đủ cho nhóm âm mưu.

Nhưng họ cần sự đảm bảo theo phương diện khác: liệu giả định của họ – là Anh và Pháp sẽ gây chiến với Đức nếu Đức tấn công Tiệp Khắc – có đúng hay không. Họ phái nhân viên thân tín đi London để tìm hiểu, và nếu cần, cố gắng gây ảnh hưởng lên phía Vương quốc Anh bằng cách thông báo tướng lĩnh Đức chống đối cuộc tấn công và sẽ có hành động quyết liệt nếu Anh cứng rắn với Hitler cho đến cùng.

Vì muốn xoa dịu Hitler, Thủ tướng Anh Arthur Neville Chamberlain ủng hộ giải pháp Tiệp Khắc nhượng vùng Sudentenland cho Đức, nhưng cần đạt sự thỏa thuận của Pháp trước khi thúc đẩy thêm. Ông đi hội kiến với Hitler hai lần: tại Berchtesgaden ngày 15 tháng 9 năm 1938 và tại Godesberg ngày 22-23 tháng 9 năm 1938.

Do những phản ứng bất lợi của Nam Tư, Rumani, Pháp, Hoa Kỳ, Thụy Điển... cùng sự thờ ơ của Ý, ngày 27 tháng 9 năm 1938, Hitler gửi cho Chamberlain một lá thư có ngôn từ được tính toán một cách tuyệt diệu để lay chuyển Chamberlain: Đức sẵn sàng đàm phán những chi tiết với Tiệp Khắc, sẵn sàng "nghiêm túc đảm bảo cho phần còn lại của Tiệp Khắc."

Đối với vài tướng lĩnh và trên hết đối với Tướng Tham mưu trưởng Lục quân Halder, đã đến lúc thực hiện âm mưu nhằm lật đổ Hitler và tránh cho Tổ quốc lâm vào một cuộc chiến mà họ nghĩ Đức sẽ bại trận. Suốt tháng 9, theo lời kể sau này của người sống sót, các nhân vật trong nhóm âm mưu luôn bận rộn. Erich Kordt, thư ký trưởng của Ribbentrop tại Bộ Ngoại giao, cũng là nhân vật tham dự quan trọng và sống sót sau chiến tranh. Tại Tòa án Nürnberg, ông soạn một bản ghi nhớ dài về những sự kiện trong tháng 9 năm 1938. Halder, Gisevius và Schacht đều kể lại về âm mưu này, nhưng mỗi người đều cung cấp chi tiết khó hiểu, và ở vài điểm còn mâu thuẫn với nhau. Cần nhớ rằng ban đầu cả ba đều phục vụ chế độ Quốc xã, vì thế sau chiến tranh cố chứng tỏ họ chống đối Hitler và yêu chuộng hòa bình.

Tướng Halder luôn liên lạc với Đại tá Oster và sếp của ông này tại Cục Quân báo, Đô đốc Canaris, người cung cấp thông tin về động thái chính trị của Hitler và của tình báo nước ngoài.

Riêng Tướng von Witzbelen vẫn còn lưỡng lự vì ông nghĩ Anh và Pháp đã bí mật cho Hitler rảnh tay ở miền đông và vì thế sẽ không tham chiến vì Tiệp Khắc. Vài tướng lĩnh tin theo ức đoán này. Vào lúc ấy, họ chỉ muốn lật đổ Hitler nhằm tránh chiến tranh xảy ra. Nếu Anh và Pháp không can dự, chiến tranh sẽ không xảy ra, thì họ thấy không cần gì phải đảo chính.

Nhóm âm mưu càng thêm chán nản vì Erich Kordt nắm bắt được nội dung lá thư của Chamberlain giải thích cho Hitler là muốn gặp ông này để "tìm giải pháp hòa bình."

Kordt nói:

Ảnh hưởng gần như là một thảm họa đối với kế hoạch của chúng tôi. Sẽ là điều vô lý nếu phát động cuộc đảo chính để lật đổ Hitler vào lúc mà Thủ tướng Anh đang đến Đức đế thảo luận với Hitler về ‘hòa bình của thế giới’.

Tuy nhiên, vào buổi tối 15 tháng 9, TS. Paul Schmidt, làm thông dịch viên độc nhất và nhân chứng độc nhất trong cuộc họp Hitler-Chamberlain và cũng nằm trong nhóm âm mưu, đưa tin là Hitler vẫn muốn đánh chiếm toàn nước Tiệp Khắc. Nguồn tin này làm cho tinh thần của nhóm âm mưu phấn chấn trở lại. Họ quyết định tiến hành theo kế hoạch.

Kordt cho biết trong ngày 27 tháng 9, nhóm âm mưu định ngày hành động là 29/9. Gisevius khai trước Tòa án Nürnberg rằng các tướng Halder và Witzleben quyết định hành động lập tức ngày 28/9 sau khi họ nhận được bản sao "bức thư thách thức" của Hitler với "yêu sách xấc xược" gửi Chamberlain đêm hôm trước. Các tướng lĩnh tin rằng đấy là chứng cứ cho thấy Hitler định tiến hành chiến tranh. Nhưng hoặc nội dung của lá thư bị thay đổi khi sao chép, hoặc các tướng lĩnh ngộ nhận, bởi vì lá thư ấy có ngôn từ ôn hòa, đầy lời hứa hẹn "đàm phán những chi tiết với Tiệp Khắc" và "nghiêm túc đảm bảo cho phần còn lại của Tiệp Khắc."

Vào giờ phút cuối cùng này, tâm tư Tướng von Brauchitsch có thể nghi ngại. Theo Gisevius, Witzleben gọi điện cho Brauchitsch từ văn phòng của Halder, cho biết mọi việc đã sẵn sàng và xin ông đứng ra chỉ huy cuộc đảo chính. Nhưng vị Tư lệnh Lục quân vẫn lửng lơ. Ông cho Halder và Witzleben biết ông sẽ đến Phủ Thủ tướng để tự mình xem các tướng lĩnh có đánh giá tình hình đúng hay không. Gisevius kể rằng Witzleben vội trở về tổng hành dinh của mình. Ông phấn khích nói: "Gisevius, giờ khắc đã đến!"

Ít phút trước thời hạn của tối hậu thư do Hitler đưa ra, 2 giờ chiều 28/9/1938, Đức gửi thư mời lãnh đạo các chính phủ Anh, Pháp và Ý đến gặp Hitler ở München vào lúc trưa ngày hôm sau để dàn xếp vấn đề Tiệp Khắc.

Tất cả những người âm mưu đều đổ lỗi cho Neville Chamberlain! Bằng cách đi đến München, ông này đã buộc bọn họ vào phút cuối phải bãi bỏ kế hoạch lật đổ Hitler và chế độ Quốc xã!

Lúc Tòa án Nürnberg gần kết thúc, Tướng Halder được phỏng vấn trong riêng tư, và nói:

Đã có kế hoạch đánh chiếm Phủ Thủ tướng và các tòa nhà văn phòng của chính phủ, đặc biệt của các bộ do đảng viên điều hành, với ý định tránh đổ máu... Đúng ngày [28/9], Witzleben đến gặp tôi... Chúng tôi thảo luận các chi tiết... Trong khi thảo luận, có tin đưa đến là Thủ tướng Anh và Thủ tướng Pháp đã đồng ý đến gặp Hitler để bàn thảo thêm. Việc này xảy ra khi có mặt Witzleben. Vì thế, tôi rút lại lệnh khởi sự bởi vì, dựa trên sự kiện ấy, không còn có cơ sở để hành động...Chúng tôi tin tưởng chắc chắn rằng chúng tôi sẽ thành công. Nhưng bây giờ Ông Chamberlain đi đến, và ngay lập tức tránh khỏi nguy cơ chiến tranh... Người ta chỉ có thể chờ đến một dịp khác...

Câu hỏi: "Liệu tôi hiểu đúng ông nói rằng nếu Chamberlain không đến München, kế hoạch của các ông hẳn đã được thi hành, và Hitler hẳn đã bị lật đổ?"

Tướng Halder trả lời:

Tôi chỉ có thể nói kế hoạch hẳn đã được thi hành. Tôi không biết liệu hẳn đã thành công hay không.

TS. Schact, người ở Tòa án Nürnberg và trong quyển sách viết sau chiến tranh rõ ràng phóng đại vai trò của ông trong các âm mưu khác nhau chống Hitler, cũng đổ lỗi cho Chamberlain:

Rõ ràng là... âm mưu đầu tiên của Witzleben và tôi là âm mưu duy nhất có thể mang đến bước ngoặt trong định mệnh của nước Đức. Đấy là âm mưu duy nhất được trù định và chuẩn bị ở thời điểm thích hợp... Vào mùa thu 1938, vẫn còn có thể mang Hitler ra xử trước Tòa án Tối cao, nhưng mọi nỗ lực sau này đều cần tính đến việc kết liễu tính mạng ông ấy... Lịch sử đã chống lại tôi. Sự can dự của một chính khách nước ngoài là điều tôi không thể xét đến.

Và Gisevius thêm:

Điều không thể đã xảy ra. Chamberlain và Daladier đang bay đến München. Cuộc nổi dậy của chúng tôi bị phá hoại. Trong vài giờ, tôi còn tưởng tượng rằng dù sao đi nữa chúng tôi vẫn có thể phát động cuộc nổi dậy. Nhưng Witzleben giải thích cho tôi biết rằng binh sĩ sẽ chẳng bao giờ nổi dậy chống lại vị Lãnh tụ chiến thắng... Chamberlain đã cứu Hitler.

Đúng thế không? Hoặc đấy chỉ là cách để bào chữa khi đã thất bại?

Khi khai trước Tòa án Nürnberg, Halder giải thích rằng có ba điều kiện để một "hành động cách mạng" thành công:

Điều kiện thứ nhất là sự lãnh đạo rõ ràng và quyết đoán. Điều kiện thứ hai là quần chúng phải sẵn sàng chấp nhận ý tưởng cách mạng. Điều kiện thứ ba là chọn thời điểm cho đúng. Theo quan điểm của chúng tôi, điều kiện thứ nhất về sự lãnh đạo rõ ràng và quyết đoán đã đạt được. Chúng tôi nghĩ điều kiện thứ hai cũng hoàn tất, bởi vì... dân tộc Đức không muốn chiến tranh. Điều kiện thứ ba – chọn thời điểm cho đúng – cũng tốt bởi vì chúng tôi đã trông đợi trong vòng 48 giờ lệnh thực hiện hành động quân sự. Vì thế, chúng tôi tin chắc rằng chúng tôi sẽ thành công.Nhưng bây giờ, ông Chamberlain đi đến, và chỉ trong phút chốc hiểm họa chiến tranh đã được ngăn chặn.

Người ta có thể nghi ngờ về việc đạt điều kiện thứ nhất. Lý do là, nếu có "sự lãnh đạo rõ ràng và quyết đoán" thì tại sao các tướng lĩnh lưỡng lự trong bốn ngày? Họ có đủ sức mạnh quân sự để quét sạch Hitler và chế độ của ông: Witzleben có nguyên một quân đoàn – Quân đoàn III – trong và chung quanh Berlin, Brockdorff-Ahlefeldt có một sư đoàn bộ binh thiện chiến gần Potsdam, Hoefner có một sư đoàn thiết giáp ở miền nam, và hai sĩ quan cảnh sát cấp cao ở thủ đô, Bá tước von Helldorf và Bá tước von der Schulenburg, có một lực lượng cảnh sát mạnh. Theo các nhân vật trong nhóm kể lại, tất cả các sĩ quan này chỉ chờ mệnh lệnh của Halder để đứng lên hành động với lực lượng áp đảo. Và dân chúng ở Berlin, đang sợ chết khiếp khi thấy Hitler sắp gây chiến tranh, có thể tự phát ủng hộ cuộc đảo chính.

Liệu Halder và Witzleben hẳn đã rốt cuộc hành động nếu Chamberlain không đến München hay không là câu hỏi sẽ không bao giờ được trả lời một cách chung thẩm. Xét qua thái độ lạ kỳ của các tướng lĩnh này khi họ muốn lật đổ Hitler chỉ nhằm tránh chiến tranh chứ không phải chấm dứt sự chuyên chế và tàn bạo, thì có lẽ họ đã hành động nếu không có hội nghị München. Người ta không có thông tin để biết âm mưu đã được tổ chức hoàn thiện như thế nào, các lực lượng đã sẵn sàng đến đâu để tiến công, và Halder và Witzleben đã tiến gần ra sao đến việc ra lệnh hành động. Chúng ta chỉ có lời khai của một số nhỏ người mà sau chiến tranh muốn chứng tỏ họ chống lại Quốc xã, và những gì họ nói và viết ra để tự bào chữa thường là mâu thuẫn và khó hiểu.

Nếu đúng như những nhân vật âm mưu nói, kế hoạch của họ đang đến điểm phải thi hành, lời loan báo về chuyến đi của Chamberlain chắc chắn sẽ làm cho họ hụt hẫng. Các tướng lĩnh khó mà bắt giữ và đưa Hitler ra tòa như là tội nhân chiến tranh khi điều rõ ràng là ông sắp đạt một thành tựu quan trọng mà không cần chiến tranh.